Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

PHÂN ƯU

PHÂN ƯU

CA ĐOÀN CÉCILIA THUẬN PHÁT nhận được tin :


Bà MARIA PHẠM THỊ NHẠN
 Sinh năm 1952 tại Ninh Bình

là chị của ca viên Giuse Phạm Văn Nhất

đã an nghỉ trong Chúa lúc 16g00 ngày 27.12.2011
tại tư gia 226/11 Nguyễn Biểu, Phường 2, Quận 5, TPHCM.
Hưởng thọ 60 tuổi. 

Nghi thức tẩn liệm nhập quan lúc 21g00 ngày 27.12.2011 

Thánh Lễ Cầu Hồn tại gia lúc 19g00 ngày 29.12.2011  

Thánh lễ An Táng lúc 06g00 ngày 30.12.2011  
tại thánh đường Giáo xứ Chợ Quán, 
Giáo hạt Saigon Chợ Quán, TGP. Saigon 
và hoả táng tại Bình Hưng Hoà, Bình Tân, TPHCM.

Anh chị em ca đoàn xin được chia sẻ nỗi niềm nhớ thương Bà MARIA cùng anh Nhất và tang quyến. Nguyện xin Chúa nhân từ giàu lòng xót thương sớm đón nhận linh hồn MARIA vào Quê Trời Vĩnh Phúc.

Ca Đoàn Cécilia
Giáo Xứ Thuận Phát
TGP. Saigon

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT CHÚA GIÁNG SINH - THÁNH LỄ BAN NGÀY (Ga 1, 1-18)



ÁNH SAO GIÁNG SINH

Nhìn ánh sao nơi góc trời xa thẳm
Hướng trông kìa đẹp lung linh biết bao!
Ngôi sao kia nhiệm mầu sáng lúc nào
Có ba nhà Thiên văn mãi theo dõi


Ôi hạnh phúc sao Giáng sinh sáng chói
Chúa mang đến Hoà bình cho thế nhân
Ôi sương sa Thánh ân xuống gian trần
Nơi Hang đá Chúa tuôn bao ân sủng


Đức Kitô niền vui đến Dân chúng
Cứu độ ta Chúa hóa thân làm người
Mang thân kiếp phàm nhân đi nhiều nơi
Để Tin Vui của Chúa vọng vang khắp


Tìm đến Chúa ta hướng theo sao lạ
Sao chỉ đường đến thờ lạy Hài Nhi
Dù đường đời lắm gian truân ngại gì
Con Tin yêu phó thác dâng lên Chúa


Tình Ngài thương mến yêu con muôn thủa
Tuân phục Cha Ngài bỏ Trời vì yêu
Ngài sinh hạ phải lạnh buốt thật nhiều
Vì tội con và bao người xúc phạm


Nhìn Hài Nhi nhiệm mầu con chiêm ngắm
Ơn trời bể biết lấy chi đáp đền
Chúa mang đến an hòa và bình yên
Cầu thế giới được Hòa bình thật sự …


Vinh Danh Con Chúa Hài Nhi
Bình an dưới thế còn gì qúi hơn ..!...


Cao Trí Dũng

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT CHÚA GIÁNG SINH - THÁNH LỄ RẠNG ĐÔNG (Lc 2,15-20)

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B (Lc 1, 26-38)


Mời xem videoclip>>

KHIÊM NHƯỢNG ĐÓN NHẬN 
 ĐTGM. Ngô quang Kiệt
I. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên chúa.

II. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?

2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?

3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?

4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?


(tinmung.net)

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

VIDEO MỪNG BỔN MẠNG VÀ 36 NĂM THÀNH LẬP CA ĐOÀN (1975-2011)

Mời anh chị em xem video ngày Mừng Lễ Bổn Mạng và 36 Năm Thành Lập Ca Đoàn
Các bạn click chuột vào các link trên, chương trình sẽ tự động phát các Videoclip theo thứ tự. Nếu muốn xem một clip khác (không theo thứ tự), các bạn chọn và click chuột vào "biểu tượng" ở phía dưới màn hình.

Anh Tuấn

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B (Ga 1, 6-8.19-28)

 

KITÔ HỮU, BẠN LÀ AI ?

Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ
 
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.

Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”

Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.
 
(tinmung.net)

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG B (Mc 1, 1-8)



DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA


Sa mạc vắng hồn con cảm nghiệm
Tiếng kêu vang hoà quyện khắp nơi
Vẳng trong hoang địa bao lời
Gioan rao giảng kêu mời hối nhân

Hãy sám hối ăn năn tội lỗi
Mau dọn đường sửa lối Chúa qua!
Lòng vui chân lý mở ra
Giêsu Cứu Thế chính là Đường đi

Hố sâu thẳm lương tri chai đá
Ngài lấp đầy hoa quả Thánh Linh
Từng giây mắt Chúa dõi nhìn
Giúp con hoán cải vẹn tình sắt son

Khi Chúa đến, không còn con sống
Mà chính là Chúa sống trong con
Tận nơi sâu thẳm tâm hồn
Ba Ngôi Thiên Chúa tràn muôn phúc lành

Là ngôn sứ Gioan làm chứng
Đấng quyền năng đang đến sau tôi
Kitô Thánh Tử Ngôi Lời
Sẽ làm Phép Rửa tội đời thứ tha

Tội thời đại lương tâm đánh mất
Cảm thức về tội lỗi xấu xa
Mẹ hiền Giáo Hội thiết tha
Gọi con trở lại giao hòa hiệp thông

Kitô hữu vững lòng nơi Chúa
Nên chứng nhân ở giữa anh em
Chúa thương những kẻ mọn hèn
Cho con tin mến chúc khen Danh Ngài.

Nt Bích Ngọc
(dunglac.org)

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2011

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG NĂM B (Mc 13, 33-37)



MONG ĐỢI !
Is 2, 1-5; Rm 13, 11-14a; Mt 24, 37-44

Ngày còn bé nhà rất nghèo. Gia đình sống bằng cái nghề may quần áo gia công cho chủ. Nhà nghèo nên rồi cứ phải chìm đắm trong cái phận “ăn trước trả sau” nghĩa là trong tháng ra chợ ăn – ghi sổ để cuối tháng lãnh lương trả lại. Có những tháng thất nghiệp coi như phải ăn độn cơm với khoai. Thi thoảng có người Dì ở nước ngoài “tài trợ” cho thùng thuốc M79D.

Thời đó làm gì mà gửi tiền về Việt Nam như bây giờ. Lên Hai Bà Trưng lãnh được thùng thuốc thì có thương lái chờ sẵn đó để sang tay ngay và lấy tiền về nhà để chi trả. Gọi là lãnh thuốc chứ có bao giờ lấy thuốc về dùng đâu. Nghèo, tiền ăn không có đủ chứ huống hồ chi nói đến chuyện thuốc men. Chạy ăn ngày ba bữa mà không ăn cơm độn đã là khá rồi.

Dăm ba tháng, Dì gửi về cho thùng thuốc và Mẹ đi bán. Ngày mà Mẹ đi lãnh quà nước ngoài thì từ sáng cho đến chiều chẳng làm được gì cả ngoài cái chuyện ngóng Mẹ về. Biết rằng, dù nghèo, dù phải trang trải nợ nần nhưng Mẹ luôn mua cái gì đó cho con cái. Khi thì được cái áo thun cá sấu, khi thì được cái quần jean Levi’s. Cái tâm trạng chờ đón Mẹ vẫn còn mãi cho đến ngày hôm nay.

Và, ngày hôm nay cũng thế, có dịp nào đó mà có ai hứa cho quà thì cứ phải ngóng, phải chờ. Vì được quà mà, ai chẳng thích. Vì thích nên cứ ngóng cứ chờ đến lúc có quà trong tay.
Tâm trạng chờ đợi, tỉnh thức là như thế ! Ai đã một lần tỉnh thức để chờ quà của mẹ, của cha, của người thân yêu sẽ cảm thấy rất vui.

Khởi đầu Mùa Vọng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta một thái độ tỉnh thức hết sức rõ ràng, hết sức thẳng thắn. Thái độ tỉnh thức chờ đợi ấy được gợi lên trong Tin Mừng theo Thánh Máccô. Chúa Giêsu, khi nói với các môn đệ về việc tỉnh thức thì Ngài nói thẳng : "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!"

Rõ ràng, Chúa Giêsu nói một cách cũng dễ hiểu chứ không khó. Chủ đi xa để rồi đâu biết lúc nào về và vì thế, đầy tớ phải thức để canh chủ chứ chẳng bao giờ có có chuyện chủ phải canh tớ cả.

Tỉnh thức mà Chúa Giêsu ví von cho dễ hiểu ấy mời gọi mỗi người chúng ta bước đi một bước xa hơn nữa đó là tỉnh thức để chờ đợi ngày mà Chúa, là Chúa, là Chủ của cuộc đời ta đến với ta.

Thật sự, nhìn tất cả những biến cố trong cuộc đời, trong ngày sống, trong hiện tại của chúng ta chúng ta đã, đang và sẽ còn thấy những cuộc ra đi rất lạ lùng, những cuộc ra đi thật bất ngờ. Thiên Chúa đến là chỗ đó đó.

Quá nhiều và quá nhiều lời đồn đãi về ngày tận thế nhưng rồi ngày đó vẫn chưa đến. Có người nói này nói nọ và đoán này đoán kia về ngày tận thế nhưng thực ra ngày mà Chúa đến với mỗi người là ngày tận thế rồi.

Câu chuyện 11 tháng 9 phải chăng là câu chuyện để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Tất cả những nạn nhân trong ngày 11 tháng 9 họ đâu có làm gì nên tội nên tình trong ngày ấy. Họ sinh hoạt hết sức bình thường như mọi người thế nhưng đến cái giờ đó họ ra đi không một lời trăn trối.

Hay là chuyến xe đi Đại Hội Thánh Mẫu cách đây hơn 2 năm cũng vậy. Họ đi dự Đại Hội Thánh Mẫu, họ đi làm việc đạo đức đó mà, nhưng tại sao họ lại ra đi bất ngờ như thế.

Gần nhất là vụ động đất ở Nhật Bản trong năm vừa qua. Tất cả không ai có thể ngờ được ngày đó là ngày cuối cùng của đời họ.

Tất cả những biến cố xảy ra chung quanh đời ta mỗi ngày và mỗi giờ là dấu chỉ ngày Chúa, Chủ đời ta đến đấy.

Thái độ chúng ta như thế nào vào cái giờ, cái ngày mà Chúa đến vẫn tùy thuộc vào lựa chọn, vào lối sống của ta.    
Anmai, CSsR
(thanhlinh.net)

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

PHÚT TƯỞNG NIỆM

Phút Tưởng Niệm Cha Cố Antôn và các Ca Viên đã qua đời được cử hành trong dịp Mừng Lễ Bổn Mạng và 36 Năm Thành Lập Ca Đoàn.

Xin mời vào đây xem >>

MỪNG BỔN MẠNG VÀ 36 NĂM THÀNH LẬP 22.11.2011

Mời các bạn xem một vài khoảnh khắc vui nhộn trong Liên Hoan. Videoclip do Anh Lương ghi. Cám ơn Anh Lương nhiều lắm nghe.

Các bạn vào đây xem>>

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

MỪNG LỄ BỔN MẠNG VÀ 36 NĂM THÀNH LẬP

22.11.2011
HÂN HOAN MỪNG LỄ BỔN MẠNG 


VÀ KỶ NIỆM 36 NĂM THÀNH LẬP
CA ĐOÀN CÉCILIA
GIÁO XỨ THUẬN PHÁT
(1975 - 2011)

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN A (Mt 23, 1-12)


CÓ TÔI KHÔNG?

Thật là hả hê! Sau bao nhiêu mánh lới để thử thách Chúa Giêsu, giờ đến lúc đám kinh sư và Pharisiêu bị Chúa Giêsu lật tẩy một cách công khai. Cũng đáng thôi, họ là những người “ngôn hành bất nhất”, chuyên sống trên sự sợ hãi của kẻ khác. Họ đem Kinh Thánh và Lề luật ra đe nẹt thiên hạ nhưng chính bản thân họ lại chẳng làm, chẳng giữ. Trong suốt 3 năm giảng dạy, Chúa Giêsu chưa từng lên án ai; từ một tay thu thuế gian ác như Giakêu, người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang cho đến những kẻ đã nhạo báng và hành hình Người… Người chỉ lên án đám kinh sư, biệt phái và Pharisiêu! Người lại còn dùng họ như tấm gương nghịch chiều để ngăn ngừa chúng ta đi theo “vết xe đổ” đó.

Tại sao lại cần phải ngăn ngừa nhỉ? Phải rồi, tuy là “vết xe đổ” nhưng lại rất hấp dẫn người ta đi theo nó. Nó như một thứ “trái cấm” thời hiện đại, vì nó tôn vinh cái “Tôi” và đem lại nhiều đặc quyền đặc lợi! Nó là cách giữ đạo nhẹ nhàng và thoải mái. Nó giúp tôi không phải vác Thánh giá vì đã chất lên vai người khác:
  • Áo quần chỉnh tề, đeo thẻ Ban Tổ Chức để đón Đức Cha nhưng treo băng rôn thì… không có tôi!
  • Đại diện Ban Hành Giáo để đọc lời chào mừng nhưng kê bàn ghế thì… không có tôi!
  • Tham gia đoàn thể để đi giao lưu, hành hương nhưng quét nhà thờ thì… không có tôi!
  • Đóng vai Giuse, Maria trong hoạt cảnh Giáng sinh nhưng thu dọn đạo cụ thì… không có tôi!
  • Hát solo trong ca đoàn nhưng đọc kinh cho kẻ liệt thì… không có tôi!
Cứ như thế, càng lúc tôi càng giống những người Pharisiêu ngày xưa lúc nào không hay. Họ may hộp kinh trên mũ, còn tôi thì sách kinh kè kè trên tay, “thẻ bài” trước ngực, phù hiệu hội đoàn trên ve áo. Họ may tua áo thật dài, còn tôi cũng khăn choàng, cravat, thắt nơ hoặc bất cứ thứ gì tôi nghĩ ra để đánh dấu mình khác mọi người. Họ thích được gọi là “rabbi” thì tôi cũng thích được chào là ông cố, bà cố, ông chánh, cụ trùm, chị trưởng, anh phó… Còn chuyện ngồi cỗ nhất trong bàn tiệc và ghế đầu trong hội đường thì xưa nay vẫn “thế gian sự thường”, có ai làm khác đâu? Tôi tự vạch ra cho mình một vị trí, một thế đứng, một phong cách, một chân dung độc đáo và đóng khung nghiêm cẩn. Chiếc khung sơn son thếp vàng khiến mọi người kính ngưỡng. Tôi không dám bước ra khỏi chiếc khung đó, sợ… đánh mất mình! Tôi đã quá quen với sự kính trọng của người khác đến nỗi không nhận ra mình tầm thường, tội lỗi. Tôi đã quá quen với sự ngưỡng mộ của người khác đến nỗi quên rằng mình dốt nát, hèn kém… Bấy nay tôi sống trong hoang tưởng mà không hề hay biết!

Hai tay thợ may lém lỉnh trong câu chuyện “Hoàng đế ở truồng” của nhà văn Andersen đã biết lợi dụng điều đó để phỉnh cả một triều đình về một thứ vải mà chỉ có người khôn ngoan mới nhìn thấy. Tất cả vua quan trong triều đều chẳng nhìn thấy gì nhưng không dám nói, vì thú nhận điều đó khác nào tự nhận mình ngu. Thế là cứ hết lời ca ngợi bộ long bào “độc nhất vô nhị” kia, cho đến khi một đứa bé reo lên: “Hoàng Đế ở truồng”. Vậy mà, cả đoàn tùy tùng cứ làm như chẳng nghe thấy gì!

Khi ta làm nô lệ cho cái “Tôi” cũng chính là lúc ta chối bỏ chân lý. Tôi cũng muốn được cứu rỗi nhưng theo cách của tôi chứ không phải theo cách của Chúa. Tôi muốn làm lãnh đạo nhưng hầu hạ anh em thì… bần tiện quá, không xứng đáng với phẩm cách của tôi, làm sao tôi có thể làm việc lâu dài? Trong thời đại mà mọi người sẵn sàng dẫm đạp nhau để ngoi lên thì việc hạ mình xuống để chờ người khác nâng lên rõ là… ảo tưởng! Không khéo còn bị đạp mất xác nữa chứ. Tôi quên mất rằng chính Chúa Giêsu đã nêu gương phục vụ bằng cách rửa chân cho các môn đệ, chứ không phải Chúa chỉ dạy suông và áp đặt chúng ta noi theo. Từ thân phận một vì Thiên Chúa tối cao vô thượng, Chúa đã chấp nhận thân phận con người rồi chịu sỉ nhục, cực hình, chết treo Thập giá thảm thương để tha thứ và cứu rỗi tội lỗi của toàn nhân loại. Bản thân tôi không thể đoái công chuộc tội cho mình, Chúa chỉ cần tôi cúi mình một chút để đón nhận ơn Cứu Chuộc đó cho chính tôi mà tôi còn nặng lòng cân nhắc sao? 

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi khắc điều Chúa truyền dạy trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ. “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. (Ga. 13: 14-15) Chúa không mong chúng con dạy dỗ lề luật cho bằng sống yêu thương và phục vụ anh em. Xin cho chúng con biết phân biệt được đâu là cốt lõi trong đời sống Đức Tin để ngày sau chúng con được thực sự hưởng ơn Cứu Độ của Chúa. Amen.

Pio X Lê Hồng Bảo
(thanhlinh.net)

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

MỜI HỌP MẶT

Thưa tất cả anh chị em

Trong Niềm Hân Hoan 
Mừng Năm Thánh 50 Năm Thành Lập Giáo Xứ 
Mừng Kính Thánh Cécilia, Bổn Mạng Ca Đoàn
Mừng Kỷ Niệm 36 Năm Thành Lập Ca Đoàn
1975 - 2011

được Cha Chánh Xứ cho phép và khuyến khích, Ca Đoàn sẽ tổ chức Mừng Lễ Bổn Mạng và Họp Mặt Thân Hữu (gồm tất cả các anh chị em đã và đang sinh hoạt trong ca đoàn kể từ ngày thành lập đến nay) vào ngày lễ Thánh Cécilia, Thứ Ba 22 tháng 11 năm 2011. Tại Nhà Thờ giáo xứ.

CHƯƠNG TRÌNH
Thứ Ba 22.11.2011
  • 16g30 : Đón tiếp Quý Cha, Quý Khách và các anh chị cựu ca trưởng, cựu ca viên.
  • 17g30 : Thánh Lễ Mừng Kính Thánh Cécilia - Chụp ảnh lưu niệm
  • 18g30 : Họp mặt liên hoan, văn nghệ tại khuôn viên nhà thờ.
Thân mời tất cả các anh chị em đã có thời gian (không kể ngắn dài) sinh hoạt trong ca đoàn vui lòng dành thời giờ về họp mặt gặp gỡ chung vui để phát huy truyền thống và động viên tinh thần các thế hệ kế thừa.

Riêng các anh chị em hiện đang định cư tại hải ngoại :
  1. Trần Thị Sen (Nouméa, New Caledonia)
  2. Nguyễn Xuân Thiều (Canada)
  3. Phạm Sỹ Thuỵ và Trần Thị Hoa (USA)
  4. Nguyễn Thị Lan (USA)
  5. Nguyễn Thị Tuyết Dung (USA)
  6. Trần Thị Hảo (Canada)
  7. Mai Anh (Canada)
  8. Mai Tiến Quang (Canada) 
  9. Tống Thị Bích Liên
  10. ......và còn ai nữa (xin lỗi) nếu có vì quên hoặc chưa biết.
 vì xa xôi cách trở nên xin thân mời trước qua trang blog này để các anh chị em có thời gian sắp xếp công việc về cho kịp ngày lễ hội. 

Thư từ liên lạc xin gởi : ceciliathuanphat@gmail.com

Thuận Phát ngày 23 tháng 10 năm 2011
Thân Mời
Trần Anh Tuấn

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO NĂM A (Mt 28, 16-20)


CHỨNG NHÂN 
TRONG SỰ HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG

Lm Tạ Duy Tuyền
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người Công giáo hay không Công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.

Hôm nay ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân Tin Mừng của Giáo hội sơ khai. Một Giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một Giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một Giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để Giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.


Theo sách Tông đồ Công vụ, thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.


Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).


Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.


Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của Kitô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý Trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin Mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin Mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người Kitô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Gandi của Ấn Độ đã từng nói: "Nếu những người Kitô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ, tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho Giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi Giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.


Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.


Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo Tin Mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho Tin Mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của Tin Mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.

(tinmung.net)

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN A (Mt 22, 34-40)



HỒNG THẬP TỰ 

Cả thế giới – không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo – đều lấy hình ảnh chữ thập làm biểu tượng cho tình yêu thương, lòng bác ái. Tổ chức “Hồng thập tự” (chữ thập đỏ) đã nói lên điều đó. Còn trong toán học thì chữ thập biểu thị sự gom lại, tập hợp lại (tính cộng). Khi quân dữ kết án tử Đức Giêsu, chúng cũng dùng cây thập tự để treo Người lên như những tội nhân phạm trọng tội khác. Có lẽ cổ nhân dùng thập tự để treo tội nhân cũng chỉ nhằm phơi bày hết hình hài của họ để bêu riếu, nhục mạ, mà cách phơi bày tiện dụng nhất chỉ có thể là treo tội nhân thẳng đứng lên cho mọi người thấy rõ. Muốn vậy, phải dùng thanh gỗ ngang để cột (hoặc đóng đinh) hai tay và dùng cây gỗ dọc chôn xuống đất để đỡ cho thanh gỗ ngang. Thế là người đứng gần cũng như kẻ đứng xa đều có thể nhìn rõ tội nhân để mà chế nhạo, phỉ báng. 

Hai cây gỗ đóng hình chữ thập trở thành cái giá (thập giá) treo tội nhân cho đến chết, nó đã thành một hình cụ giết người, một biểu tượng của tội ác do con người tạo ra (ngày xưa ở Việt Nam, các cụ vẫn gọi cây thập tự treo Chúa Giêsu là cây thập ác). Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giêsu bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay kéo mọi người lên (thanh gỗ ngang). Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giêsu Nadaret – vua Do Thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giêsu nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do Thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do Thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Trở lại với hình ảnh thập tự trong toán học biểu thị sự gom lại, cũng có nghĩa là tập hợp các phần tử lại thành một mối, và nếu các phần tử đó là con người thì chẳng phải đây là dấu chỉ sự đoàn kết yêu thương nhau đó sao? Rõ ràng từ một biểu tượng của tội ác, cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu mà tổ chức Hồng Thập Tự quốc tế đã lấy làm biểu tượng cho mục đích và hoạt động của mình.

Người Kitô hữu phải ý thức khi chiêm ngắm Thánh Giá thì cũng chính lá lúc được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giêsu Kitô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39). Cây Thánh Giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Kitô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Kitô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống. 

Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Kitô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40)

Cũng vì thế, nên ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Kitô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng  phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Tôi vẫn còn nhớ câu chuyện một phóng viên ngoại quốc sau khi xem cuốn phim Việt Nam “Chuyện tử tế” (đạo diễn Trần Văn Thuỷ) trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), đã hỏi: “Người Kitô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi điều người ta mong đợi ở các Kitô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Kitô hữu.

Là Kitô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20). “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Kitô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Kitô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Kitô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Kitô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Kitô hữu còn là hạt giống nữa” (SL Truyền Giáo, số 5). 

“Máu các Kitô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Kitô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng Thập Tự Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường, Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
(thanhlinh.net)

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A (Mt 22, 15-21)



CỦA THIÊN CHÚA TRẢ VỀ CHO THIÊN CHÚA

Biết lấy gì cảm mến,
biết lấy chi báo đền Hồng ân Chúa cao vời,

Chúa đã làm cho con.

Thương con từ ngàn xưa, một tình yêu chan chứa,

và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian,

cho con say tình mến, và này con xin đến,

một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời…

(Oanh Sông Lam, Tâm Tình Hiến Dâng)

Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hóa giải rất ngoạn mục cái bẫy tinh vi của nhóm Pharisiêu, hòng bắt lỗi Ngài. Không những Chúa Giêsu khôn khéo đối đáp, mà còn muốn dạy chúng ta nghĩa vụ sống ở đời.

Ngoài nghĩa vụ đời, như đóng thuế cho chính quyền, chúng ta còn nghĩa vụ Đạo với Thiên Chúa. Rõ ràng đời và Đạo hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, nhiều lúc vẫn đan xen vào nhau, liên quan đến nhau, buộc chúng ta phải dứt khoát chọn lựa. Dù khó khăn thế nào, thách đố thế nào, chúng ta cũng không thể không ưu tiên cho nghĩa vụ Đạo. Vì nghĩa vụ đời chỉ nhắm vào vật chất, tiền bạc, của cải phù phiếm, còn nghĩa vụ Đạo có tầm mức cao hơn, nhắm vào tinh thần, vào tâm hồn linh thiêng.

Như thế, lời ca trong Tâm Tình Hiến Dâng của nhạc sĩ Oanh Sông Lam phía trên, đã phần nào nhắc đến nghĩa vụ thiêng liêng cao cả này. Chúa đã dạy:“Của Xêda trả cho Xêda. Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”(Mt 22, 21)

Vậy của Thiên Chúa là chi đây? Nếu không phải một Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài đã tạo dựng chúng ta, ban cho chúng ta tự do chọn lựa cách sống. Khi thấy chúng ta tội lỗi, phản nghịch, Ngài ban Chúa Giêsu nhập thế, cứu chuộc chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giê su còn ở lại cùng chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể nhiệm mầu, hầu dưỡng nuôi chúng ta, luôn kết hợp với Ngài.

Như thế, nghĩa vụ đời đóng thuế thì luôn có định mức thuế cụ thể, có thể tăng giảm tùy hoàn cảnh, tùy tình hình thu nhập, tùy giai cấp, hay chế độ. Nhưng nghĩa vụ Đạo lại không thể nào định mức được. Làm sao thống kê, làm sao đo lường được Tình Yêu. Nhất là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho loài thọ tạo chúng ta?

Cụ thể, làm sao báo hiếu cho đủ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ? Làm sao báo đáp đủ công lao giáo huấn thầy cô? Làm sao đền đáp cho vừa tình yêu lứa đôi? Huống chi đây là Tình Yêu tuyệt đối, bao la của Thiên Chúa, thì  “biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền Hồng ân Chúa cao vời, Chúa đã làm cho con.”

Lạy Chúa, chúng con phàm hèn, chẳng thể nào báo đáp nổi bao nhiêu Hồng ân Chúa ban. Chúng con chỉ biết cảm tạ, ngợi khen và cố gắng làm sao trở nên thực sự là chứng nhân Tình Yêu vĩ đại của Chúa. Amen.

BomBo

(thanhlinh.net)

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

HỘI THẢO THÁNH NHẠC TOÀN QUỐC LẦN THỨ 29


 
Hội thảo Thánh nhạc Toàn quốc lần thứ 29 của Ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt nam đã được tổ chức vào sáng thứ Ba, ngày 11/10/2011 tại Trung tâm Mục vụ TGP.TPHCM. Ngoài các công việc thường lệ, Hội thảo lần này tiếp tục tập trung vào việc góp ý để hoàn thiện văn kiện hướng dẫn mục vụ thánh nhạc toàn quốc đã được dự thảo...
 
 
(WGPSG)

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN A (Mt 22, 1-14)



ÁO CƯỚI YÊU THƯƠNG

Một câu chuyện giả tưởng rất quen thuộc mà có lẽ mọi người đã từng nghe. Câu chuyện kể về một phóng viên xin Chúa cho vào thiên đàng và hỏa ngục để viết bài phóng sự. Trước hết anh được dẫn vào hỏa ngục, đúng lúc mọi người đang ăn uống. Anh nhìn thấy trên bàn tiệc ê hề món ngon vật lạ, nhưng bầu khí buồn rũ rượi, vì trên tay mọi người đều buộc một đôi đũa rất dài, họ không thể gắp thức ăn đưa vào miệng của mình. Chính vì không ăn được nên họ buồn, tức bực, rồi dùng đôi đũa đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Sau đó, anh được dẫn vào thiên đàng, cũng đúng lúc mọi người đang ăn uống. Anh nhìn thấy trên bàn cũng những món ngon vật lạ và đôi tay mọi người cũng buộc một đôi đũa rất dài không khác gì dưới hỏa ngục. Tuy nhiên, bầu khí bữa tiệc thì khác hẳn: rất vui vẻ, rất thư thái bình an, tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Mỗi người không gắp thức ăn đưa vào miệng của mình, nhưng đưa vào miệng người đối diện hoặc người bên cạnh, nên ai nấy đều được ăn no, ăn thoải mái. Dường như họ rất hiểu ý nhau, gắp cho nhau những món ăn mà người ấy thích. Họ nói chuyện ca hát thật vui vẻ và hạnh phúc. Người phóng viên ấy đưa ra một nhận định: thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau một đều căn bản, đó là tình thương. Thiên đàng là bàn tiệc của những người quảng đại luôn yêu thương quan tâm đến người khác; còn hỏa ngục là bàn tiệc của những người ích kỷ chỉ biết lo lắng cho cái tôi của mình.

Ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta: hãy mặc lấy áo cưới yêu thương để vào dự tiệc cưới Nước Trời.


Bài đọc 1, tiên tri Isaia loan báo về ngày cánh chung “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon … Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ”. Thiên Chúa yêu thương sẽ cứu độ tất cả mọi người.


Bài đọc 2
, thánh Phaolô khẳng định với giáo đoàn Philipphê: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu”. Mà Thiên Chúa giàu sang dư dật điều gì ngoài tình yêu?

Bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn Tiệc Cưới để nói với các Thượng Tế và Kỳ Mục. “Nước Trời giống như chuyện một vị vua kia mở tiệc cưới cho con mình…”. Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.


Dụ ngôn Tiệc Cưới trong trang Tin Mừng hôm nay có hai thắt nút khó hiểu và cũng là hai điều mà mỗi chúng ta cần phải suy nghĩ và thức tỉnh.


Thứ nhất, nhà vua sai quân đi tru diệt và phá hủy thành phố của bọn sát nhân là nhóm khách được mời trước tiên. “Tiệc cưới đã sẵn rồi mà những kẻ được mời lại không xứng đáng”. Sự tru diệt và phá hủy là hệ quả tất yếu sẽ đến đối với những kẻ khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa Tình Yêu. Không chỉ khước từ mà họ còn chống lại Thiên Chúa khi hành hạ và sát hại những kẻ đi mời. Nguyên nhân khiến họ khước từ và chống lại Thiên Chúa là bởi họ đã chọn của cải vật chất thế gian làm vị chúa của mình. “Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn…”. Tiền tài, địa vị, danh vọng, hưởng thụ … quan trọng hơn lòng kính mến Chúa và yêu tha nhân. Họ mù quáng không thấy đâu là điều chính yếu, đâu là cái phụ tùy. Họ sống theo thước đo và thang giá trị của cõi lòng ích kỷ, vun vén cá nhân. Họ đáng phạt trong ngày cánh chung.


Dường như mỗi người chúng ta cũng thấy bóng dáng mình nơi nhóm người được mời trước tiên. Đã bao lần chúng ta cũng như họ, đã chạy theo những cám dỗ đam mê vụ lợi cá nhân mà khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa; đã chọn của cải vật chất và giá trị trần gian hơn Tiệc Cưới Tình yêu, hơn Tin Mừng cứu độ, hơn phần thưởng Nước Trời.


Thứ hai, những người đang ở ngoài đường bất ngờ được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn y phục cưới mà mặc. Thế mà nhà vua lại bảo: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!”. Tiệc cưới diễn tả tình yêu, niềm vui và hạnh phúc. Áo cưới diễn tả tâm tình, thái độ và lối hành xử nơi bàn tiệc mừng vui hạnh phúc. Cho dù là kẻ “vô công rồi nghề” đang đứng “đầu đường xó chợ”, nhưng khi được mời, bước vào dự tiệc cưới thì phải mang tâm tình và thái độ của người đi ăn cưới. Tức phải mang lấy tâm tình và thái độ yêu thương, vui tươi và hạnh phúc.


Khi gia nhập Nước Trời mà Chúa Giêsu đã khởi sự nơi trần gian qua cái chết và phục sinh của Ngài; nghĩa là khi được lãnh nhận bí tích Rửa tội, mỗi chúng ta được mặc lấy lối sống của Tin Mừng, lối sống tình yêu mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta. Chính thánh Phaolô đã từng mời gọi: "Anh em hãy mặc lấy con người mới" (Ep 4, 24), "Hãy mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3, 27).


Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta tự kiểm điểm lại đời sống hằng ngày của chính mình. Chúng ta có giữ tinh tuyền chiếc áo trắng ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, ngày chúng ta bước vào tiệc cưới Nước Trời đã được khởi sự nơi trần gian hay không? Có mặc lấy áo cưới yêu thương là tâm tình người con cái Chúa sống Tin Mừng hằng ngày hay không?


Rất mong mọi người chúng ta mạnh mẽ tuyên bố như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Amen.

Nguyễn Hiệp
(thanhlinh.net)

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN A (Mt 21, 33-43)

LỜI CHÚA LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI (Lc 1, 26-38)


 Mời xem videoclip
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA KINH MÂN CÔI

TẠI ĐÂY

HƯƠNG HOA DÂNG MẸ

Tháng Mười dâng Mẹ ngàn hoa,
Tiếng lòng thao thức hài hòa yêu thương.
Lời kinh đậm nét vấn vương,
Vâng lời Mẹ dạy can trường chăm ngoan.

MÂN CÔI chuỗi ngọc liên hoàn,

Gẫm đời Con Chúa quyền năng cao vời.
Mối tình Thập tự Con Trời,
Cô đơn tất tưởi không lời than van.

Nằm trên Thập giá nguyện thầm,

Đàn em con dại âm thầm xót xa.
Cúi nhìn Mẹ thánh tình ca,
Dẫn đàn con Mẹ vào ra nguyện cầu.

Giêsu Anh Cả - chiếc cầu,

Nắm bàn tay Mẹ qua cầu bình an.
Hồng ân Thiên Chúa tràn lan,
Mẹ là bóng mát Ngọc Lan gọi mời.

Lòng con xao xuyến bồi hồi,

Nhớ ngày lạc Mẹ, con rơi trần đời.
Bóng hình quỷ dữ gọi mời,
Con đà quỵ ngã, con rơi xuống bùn.

Ưu tư còn đọng vẫy vùng,

Nắm tà áo Mẹ anh hùng tiến lên.
Giã từ lối cũ bình yên,
Tay cầm Tràng Hạt vững niềm cậy tin.

Bướm hoa cuối nẻo đường tình,

Dốc đời không đẹp ta xin giã từ.
Không còn sống kiếp hư từ,
Trở về bên Chúa nhân từ yêu thương.

Ngắm nhìn Đức Mẹ ngàn thương,

Cầu thay nguyện giúp hướng dương Nước Trời.
Ngày đời ôm Chúa Ngôi Lời,
Sống trong tình mến một đời an vui.
Nam Giao
(thanhlinh.net)