Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Ga 6, 1-15)


  
CỘNG TÁC

Sưu tầm
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.

Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.

Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.

Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.

Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhậân ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.

Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.

Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.

Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.

Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.

Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. 
(tinmung.net) 

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Mc 6, 30-34)



TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.

Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”

Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)

Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng không có tính người mà chỉ có thú tính, chẳng khác gì tính cách của một con chó hoang.

Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.

Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su. (Mt 4,4)

Khao khát lương thực tinh thần


Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giê-su, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.

Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giê-su sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.

Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giê-su và các môn đệ.

Khi Chúa Giê-su lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ. (Mc 6, 34)

Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.

Chúng ta rất có phúc khi được sống bên Chúa Giê-su là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.

Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.

Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.

Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.

* * *

Muốn bắt được cá lớn, người ta phải giong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn ăn được trái ngon, người ta phải chịu khó leo lên tận ngọn cây vì những trái nằm trong tầm với của mọi người, chắc không còn ở dưới. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy hiểm trở gian nan. Vậy muốn tìm được kho báu, chúng ta phải chấp nhận gian nan thử thách.

Nguyện xin Chúa Giê-su giúp chúng ta sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “Kho báu” trong Tin Mừng của Chúa Giê-su, nhờ đó được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng.

(tinmung.net)

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Mc 6, 7-13)



RAO GIẢNG

Sưu tầm  
Các con hãy đi rao giảng.

Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi.

Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.

Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.

Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.

Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:

- Nước trời đã gần.

Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.

Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…

Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.

Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.

Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.

Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:

- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.

Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?

Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.

Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.

Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.

Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.

Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.

Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.

(tinmung.net)

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Mc 6, 1-6)


Mời xem videoclip>>

THÀNH KIẾN 
Sưu tầm
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?

Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia… Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Nagiarét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên sai, Đấng cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?

Dân làng Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.

Dân làng Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình”, hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng cứu thế lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.

Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.

Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.

Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.

(tinmung.net)

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

CÁC CA ĐOÀN PHỤNG VỤ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Các ca đoàn Phụng vụ sau Công đồng Vatican II

Có nhiều ca đoàn trong các nhà thờ tại Việt Nam. Những ca đoàn này đã góp phần đáng kể trong công việc thờ phượng Chúa. Nhưng tất cả đã là những ca đoàn phụng vụ chưa thì tôi chưa dám quyết, mà chỉ muốn đưa ra một mô hình ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong bài viết dưới đây, dựa theo một số tài liệu trong tạp chí Maison-Dieu, Célébrer và một bài nhận định của linh mục Nguyễn Hữu Triết về hiện tìnhThánh Nhạc Việt Nam.

Những tạp chí và tài liệu đó càng làm cho tôi thêm xác tín về sự cần thiết và vai trò của các ca đoàn phụng vụ trong việc tôn vinh và thờ phượng Thiên Chúa. Vì vậy, tôi xin chia bài này làm hai phần : phần I nói chung về các ca đoàn, phần II nói về các ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II ở bên ta cũng như bên Tây, để đi tới kết luận rằng ca đoàn là một bộ phần cần thiết và đắc dụng của cộng đoàn, nên cần được chăm sóc và huấn luyện về cả hai phía ca đoàn cũng như cộng đoàn, đặc biệt nơi những người có trách nhiệm riêng như cha sở và ca trưởng.

I. Nói chung về ca đoàn

1,1 Ca đoàn là gì ?

Ca đoàn là một từ mới được sử dụng trong những năm gần đây. Ngày trước những người hát trong nhà thờ thường được gọi là hội hát hay ban ca vịnh, gồm toàn nam giới và hoạt động cũng khá hạn chế, nghĩa là chỉ hát lễ và hát chầu bằng tiếng la tinh.

Trước năm 1945, ngoài các bài hát bằng tiếng la tinh là các bài hát bằng tiếng Pháp trong cuốn Cantique de la jeunesse. Một số bài trong cuốn này cũng như một số bài bằng tiếng la tinh như Veni Creator, Jesus dulcis memoria v.v… được đặt lời Việt vào để hát. Ngoài ra lại có cả một cuốn sách hát Tây lời Việt đề là Thanh Niên Kinh Nhạc, do ông Nguyễn Đức Lợi sưu tầm và xuất bản, nhưng không biết xuất bản năm nào [1], và một cuốn khác do cha già Vượng, giáo phận Hà nội sưu tầm và đặt lời. Thỉnh thoảng có một số bài do mấy chủng sinh Đại Chủng Viện Liễu Giai-Hà-nội [2] sáng tác như Nguyện xin Mẹ rất từ bi của thày Hùng Lân và Ôi thiêng liêng cao quí vô cùng của thày Phương Linh trước 1945, nhưng ít được ai biết đến. Vào tháng 10 năm 1945, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời và cho phát hành Cung Thánh I. Thánh ca Việt Nam phát khởi từ đây và lan rộng khắp nơi. Ngoài ra, trong Nam trước đó đã có những bài rất nổi tiếng như Nửa đêm mừng Chúa ra đời và Nguyện xin Chúa Thánh Thần của limh mục Phao-lồ Đạt cũng như mấy bài của thầy Mạc Khanh ở Thanh Hóa như Chói lói Con Chúa nơi cửu trùng và Hải tần v.v…

Vậy ca đoàn là gì ? Thưa là một tổ hợp thanh niên thiếu nữ hát lễ trong các nhà thờ ngày Chúa nhật cũng như ngày thường và các ngày lễ cưới, lễ an táng, chầu Mình Thánh Chúa v.v… hay một hội, một nhóm đồng ca, hát những bài ca phụng vụ [3].

Từ ca đoàn không có trong tự điển tiếng Việt. Thông thường hiện nay, người ta hiểu ca đoàn là những người đi hát lễ. Hiểu như vậy không sai, nhưng chưa đủ. Vì vậy, cần phải nói thêm về vai trò và nhiệm vụ của ca đoàn nữa.

1,2 vai trò của ca đoàn

Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao quí. Điều này chính ĐGH Phao-lô VI đã nói như sau : “Nếu đọc kỹ các tài liệu về Thánh Nhạc, người ta sẽ thấy rõ, ngay cả bây giờ, nhiệm vụ Hội thánh giao cho Thánh Nhạc, những người sáng tác cũng như các nhạc công, các ca đoàn và những người hát trong nhà thờ thật là cao quí và hệ trọng, như từ trước đến nay vẫn thế. Khi cử hành phụng vụ, phải liệu phô diễn những hình thức nghệ thuật sao cho thật hay, thật đẹp, như kèm theo các nghi thức là những cử điệu khoan thai, đẹp mắt, xứng hợp, trang trọng, cung giọng trong sáng dễ nghe, dễ đáp ; như đi đôi với lời cầu nguyện của Hội thánh là những bài hát vừa hay vừa cảm động, lại có sức nâng tâm hồn người nghe lên cùng Thiên Chúa và giúp cầu nguyện. Âm nhạc tỏa chiếu trên cộng đoàn họp nhau lại nhân danh Chúa Ki-tô một thứ ánh sáng rực rỡ như chính gương mặt của Người vậy. Nhờ sức mạnh vô hình của nghệ thuật, các ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp Thiên Chúa là Đấng thanh tẩy và thánh hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó.

Nhằm mục đích này, những tài liệu tôi vừa trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từ những ca đoàn trong các đại giáo đường, các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban hát trong các nhà nguyện, nhà thờ nhỏ, say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi nghệ thuật. Huấn thị về Thánh Nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ nào mà không có hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì phải có ít là hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, để có thể giúp giáo dân tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễ hát, lại biết điều khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát [4].

Qua những lời lẽ trên, Hội Thánh tỏ ra săn sóc đặc biệt đến các ca đoàn, kêu mời họ đạo và cha sở lưu tâm đến ca đoàn. Lý do của sự quan tâm này là vì các ca đoàn góp phần vào việc tôn vinh thờ phượng Chúa, một nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh.

Đó là bản chất và lý hữu của ca đoàn. Bây giờ xin nói đến nhiệm vụ của ca đoàn.

1,3 Nhiệm vụ của ca đoàn

Ca đoàn có nhiệm vụ yểm trợ và làm nền cho cộng đoàn hát, hay hát đối đáp với cộng đoàn, và đảm nhận những phần hát khó và đòi hỏi hơn. Riêng đối với bản thân, mỗi ca viên có bổn phận phải lo cho mình được huấn luyện về đường thiêng liêng, tìm cách để được hiểu Kinh Thánh , Phụng Vụ và các tài liệu Thánh Nhạc. Ngoài ra là tuân hành nội qui và nhịp độ sinh hoạt của ca đoàn, vì vào ca đoàn là làm một công tác thuộc đức thờ phượng, và ở trong ca đoàn là làm một tông đồ nhằm phổ biến vẻ đẹp của nghệ thuật cả về nội dung lẫn hình thức, qua lời ca tiếng hát để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu. Đây là lý tưởng cần phải nhắm tới, còn thực tế thì phải nói là khó, vì vấn đề không được các vị hữu trách lưu tâm đến bao nhiêu, cứ để cho ca đoàn và ca trưởng tự do xử lý, dù đã có những thông cáo hướng dẫn [5].

Năm 1987 Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Thành Phố đã ra các tập in ronéo về Mùa Vọng, Mùa Chay, Tam Nhật Vượt Qua, nhưng không lấy gì làm phấn khởi, vì các linh mục quản xứ không lưu tâm, giới trẻ không thích nhạc phụng vụ. Sở dĩ như vậy vì phần đông không hiểu Thánh Nhạc là nhạc dùng trong nhà thờ để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa tín hữu, nên có qui luật riêng về nghệ thuật là phải hay, phải thánh thiện và mang tính phổ quát, nghĩa là ở đâu và thời nào cũng hay.

Vì vậy, muón giúp ca đoàn thi hành nhiệm vụ này, các vị hữu trách nên nhắc cho ca trưởng và ca đoàn luật hát xướng của Hội Thánh trong nhà thờ, kiểm tra bài hát về nội dung và nhạc điệu, chỉ cho cách chọn bài hát, nhấn mạnh đến tính cầu nguyện, cổ vũ và cho người đi học các lớp thánh nhạc và đệm đàn.

2. Thế nào là ca đoàn phụng vụ ?

Ca đoàn phụng vụ là ca đoàn chuyên lo ca hát ở nhà thờ theo qui luật của Thánh Nhạc cũng như các chỉ dẫn và đòi hỏi của Phụng Vụ. Là phụng vụ, khi ca đoàn hát các bài ca phù hợp với từng phần trong thánh lễ, theo từng thể loại như đáp ca, đối ca, tung hô, ca vịnh, cung đọc, ca khúc, nghĩa là từ vị trí, thể loại cho đến nội dung lời ca, tất cả đều nằm trong mục đích tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu. Những ca đoàn như thế này tương đối còn ít ở nước ta, vì những lý do như nói ở trên, lại gặp hoàn cảnh không thuận lợi, không có phương tiện, không sẵn người chuyên môn, tuy có nhiều ca đoàn hát hay nhưng chưa phải là phụng vụ. Có chăng thì mới chỉ có Ban Hợp Xướng Pio X từ 17 năm nay đã luôn theo sát các qui luật của Thánh nhạc mà hát theo phụng vụ, đúng như các phần đoạn trong thánh lễ cũng như hình thức, thể loại và lời ca lấy từ các bản văn phụng vụ và Kinh Thánh. Còn bên Âu Mỹ, người ta có nhiều chuyên viên, lại sẵn phương tiện và truyền thống lâu đời nên thấy khác. Hơn nữa, kỷ luật về Thánh Nhạc nơi họ được áp dụng và tuân hành chặt chẽ hơn. Các thứ loại nhạc mới phát xuất từ nơi họ, nhưng họ phân biệt rất rõ nhạc ngoài đời với nhạc trong nhạc thờ. Trong nhà thờ, người ta không hát và đệm đàn như trong các nhà thờ Việt Nam. Nói đúng ra là người ta hiểu và thì hành kỷ luật một cách nghiêm túc. Có lẽ vì vậy mà những người xuất thân từ các học viện thánh nhạc như Viện thánh nhạc Rô-ma, bài hát họ làm ra không phải kiểm duyệt, vì họ đã kiểm duyệt trước theo những điều đã được học biết và cũng vì lương tâm nghề nghiệp và tinh thần tự trọng nữa.

Nói gọn lại, có thể căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây để xác nhận một ca đoàn là phụng vụ :

1,3,1 Ca tụng tôn vinh Chúa

Ca đoàn ấy theo đuổi mục đích chính là ca tụng tôn vinh Chúa và thánh hóa các tín hữu.

1.3.2 Phân biệt nhạc đạo với nhạc đời

Ca đoàn ấy phân biệt rõ nhạc đạo với nhạc đời. Nhạc nào là đời thì chơi ở ngoài đời, nhạc nào là đạo mới đem vào nhà thờ

1,3,3 Cầu nguyện thật sự

Ca đoàn ấy cầu nguyện và giúp cầu nguyện thật sự, trong khi hát và giúp người ta cầu nguyện, bằng những bài hát mà tâm tình và ý tưởng phát xuất từ những bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ, lại được thể hiện với một cung cách đưa tâm hồn người nghe, người hát lên cao và mang đến cho tâm hồn họ, những tâm tình sốt mến, nghĩa là nghe hát và hát xong, người ta thấy có một cái gì đó và cũng còn để lại một cái gì đó.

1.3.4 Không theo lối đời

Lối đời là hát để được tiếng cho cá nhân cũng như đoàn thể. Ca đoàn ấy hát không phải để đề cao cá nhân như ca sĩ hay tự đề cao mình như ca đoàn vượt trội. Ở đây không có cơ hội cho cá nhân trở thành ngôi sao và không biến người lĩnh xướng thành ca sĩ như ở phòng trà, các tụ điểm ca nhạc hay trên màn hình.

1.3.5 Thi hành đúng phần việc

Khi hát, điều khiển ca đoàn hay chơi nhạc cụ, ai cũng chỉ thi hành công việc cần thiết và không ai chơi trội để lấy tiếng cho mình.

II. Các ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II

1. Ban Hát Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Bà Paris. [6]

Tôi nói mà không dám giới thiệu, vì giới thiệu thì phải biết rõ, đàng này tôi mới dự có một buổi Kinh Chiều vào đầu tháng 2, năm 1993. Bởi vậy, tôi chỉ nói những điều mắt thấy tai nghe.

Tôi thấy có vài chục ca viên gồm người lớn, thanh niên,thiếu nữ, nhi đồng mặc đồng phục mầu xanh đậm. Họ đứng hai bên các hàng ghế được dành cho các kinh sĩ hay tu sĩ hát kinh phụng vụ.[7] Mỗi khi hát thì ca trưởng ra đứng ở giữa đánh nhịp cho họ. Người đánh nhịp hôm đó là một thiếu nữ. Cô đánh nhịp không đẹp và không có gì hấp dẫn bằng phần đông các cô đánh nhịp trong các ca đoàn của chúng ta. Tôi chỉ thấy nhịp của cô làm cho người ta hát được, hát đều và hát đúng cũng như mấy cô đầm đánh nhịp ở nhà thờ Mai Khôi cho người Pháp vào các lễ Chúa Nhật lúc 10g30 sáng. Ca đoàn hát đối đáp với cộng đoàn, mỗi bên chu toàn đúng phần việc của mình. Các bài hát được in sẵn và để tại chỗ người tham dự. Chiều nào người ta cũng hát như thế tùy theo bậc lễ. Những người hát trong ban này là những thành phần chuyên nghiệp được huấn luyện và được trả lương. Tuy vậy, họ không hát như những người hát thuê mà hát như những người có trách nhiệm. Tiền lương họ nhận được là mối dây buộc họ phải làm cho chu đáo. Đó là điều công bằng về cả hai phía. Kể cũng đáng đối với một nhà thờ như nhà thờ Đức Bà Paris, nơi có nhiều du khách đến thăm viếng và tham dự các giờ kinh mỗi ngày.

2. Ca Đoàn Nhà Thờ Chánh Tòa Thánh Phao-lô ở Lyon  [8]

2,1 Vài dòng lịch sử

Nguồn gốc Ban Hát của nhà thờ này có từ rất lâu đời. Năm 800, ĐC Leitrade mở một trường dạy hát ở gần nhà thờ chánh tòa, theo lời yêu cầu của bạn ngài là hoàng đế Charlemagne. Trường này tồn tại mãi cho đến thế kỷ XVIII. Hiện nay còn ngôi nhà rất đẹp tên là Mécanterie, nơi lưu trú của các em ca viên thời xưa. Cuộc Cách Mạng năm 1789 làm cho mọi sinh hoạt của trường bị gián đoạn lần đầu tiên. Nhờ sự kiên trì của ĐC de Bonald trường mau chóng phục hồi các sinh hoạt vào giữa thế kỷ XIX. Ban Hát bấy giờ trở thành tổ chức âm nhạc đầu tiên của thành phố. Cuộc gián đoạn thứ hai xẩy ra vào năm 1969, khi tiểu chủng viện, nơi tuyển mộ các ca viên nhỏ bị đóng cửa,.

Đến năm 1974, theo lời khuyên sáng suốt của linh mục Marcel Godard, quản nihệm nhà thờ chánh tòa. Linh mục Jean-Francois Duchamp, giáo sư trường Saint Bernard bắt đầu luyện tập cho những em thích hát. Dần dần nhóm nhỏ này phát triển và lấy tên là Les Petits Chanteurs de Saint Bernard rồi sau thành Les Petits Chanteurs de Lyon.

Năm 1982, ĐHY Albert Decourtray vừa từ Dijon đến, tặng cho nhóm này danh hiệu Ban Hát Trẻ. Năm 1984, ngài đặt linh mục Duchamp làm quản nhiệm nhà thờ chánh tòa. Thế là bắt đầu một thời kỳ phát triển rực rỡ. Thời kỳ này Ban Hát hợp tác với trường Sainte Marie cho đến năm 1991 thì mở trường đào tạo ca viên hát trong nhà thờ.

2,3 Cấu trúc

Ban Hát Nhà Thờ được đặt dưới quyền vị quản nhiệm thánh đường. Vị này được ĐC giáo phận bổ nhiệm. Ban Hát được điều hành theo qui chế một hiệp hội chiếu theo bản luật năm 1901. Ban có một Hội Đồng Quản Trị gồm các vị đại diện của Tòa Tổng Gíám Mục, nhà thờ chánh tòa, nhà trường và các thành viên được tuyển chọn trong số các phụ huynh. Chủ tịch Hiệp Hội, ông Jacques Dumont điều hành toàn bộ công việc với sự hợp tác chặt chẽ của ông Giám Đốc. Hội có hai phó chủ tịch đặc trách việc liên lạc với gia đình các ca viên và với bên ngoài, một thư ký và một thủ quỹ lo sổ sách tiền bạc. Từ năm 1996, thêm một cô thư ký làm việc bán thời gian, lo tiếp khách và một số công việc khác.

Việc điều hành Ban Hát về mặt nghệ thuật được giao cho linh mục Duchamp. Có một Hội Đồng Âm Nhạc gồm một số người liên hệ đến công việc đào tạo hỗ trợ. Hiện nay Ban hát có 150 thanh thiếu niên chia làm bốn ca đoàn :[9]

Ca đoàn 4 : lớp 10-11, 6,7 tuổi, bậc khai tâm

Ca đoàn 3 : lớp 7-8, chừng 7-8 tuổi, giai đoạn dự bị

Ca đoàn 2 : lớp 6-7, chừng 8-9 tuổi, bậc trung cấp

Ca đoàn 1 : từ lớp 6 trở đi, chừng 10 tuổi hoặc trên 10 tuổi là lớp lớn.

Ca đoàn nam giới gồm các ca viên kỳ cựu.

Việc huấn luyện chia thành nhiều ban do nhiều huấn luyện viên phụ trách :

Huấn luyện âm nhạc : ông Francois Terrieux

Huấn luyện thanh nhạc : ông Emmanuel Magat

Lịch sử âm nhạc : bà Paule Delorme

Hợp xướng : linh mục Francois Duchamp.

2,3 Trang bị

Có hai phòng tập hát ngay trước nhà thờ chánh tòa, hai phòng hội, một phòng để sổ sách và một làm văn phòng. Ngoài ra, Ban Hát còn được sử dụng hai phòng nữa để giảng dạy trong khuôn khổ đào tạo. Có 4 dương cầm loại thông thường và một cái có “đuôi”, một quản cầm có 4 hàng phím, hai đàn điện tử và một dương cầm điện tử, một dàn âm thanh và dụng cụ vidéo cao cấp.

2,4 Cơ quan bảo trợ

Cơ quan bảo trợ chính yếu là giáo phận dưới quyền ĐTGM với sự trợ giúp của cha sở nhà thờ chánh tòa. Vị quản nhiệm thánh đường cũng là Giám Đốc Ban Hát, thành viên BTN giáo phận và Ban Quản Trị Viện Thánh Nhạc Lyon.

2,5 Các dịch vụ âm nhạc

2,5,1 Phụng vụ

Ban Hát nhận hát các buổi lễ của nhà thờ chánh tòa với các ca đoàn hỗn hợp : ca đoàn người lớn và ca đoàn chỉ gồm toàn thiếu nữ. Ít khi hay đặc biệt lắm các ca đoàn mới cùng có mặt chung trong một buổi lễ. Mỗi tháng hai lần Ban Hát nhận hát lễ Chúa Nhật ở nhà thờ chánh tòa. Khi nào ĐTGM tới cử hành lễ Giáng Sinh, Tuần Thánh, Hiện Xuống, lễ Các Thánh, Ban hát phải có mặt. Các chiều thứ ba hàng tuần, Ban Hát hát Kinh Chiều có giáo dân tham dự. Buổi hát này buộc phải được chuẩn bị chu đáo, ca viên phải có mặt đông đủ, bài hát được chọn lọc kỹ lưỡng và tập luyện công phu. Ngoài ra, Ban hát cũng tới các gia đình giúp việc hiếu hỷ. Đó cũng là một cách thế mang lại cho các gia đình niềm vui và sự an ủi.

Les Petits Chanteurs de Lyon là một Ban Hát được tổ chức qui mô và được sự bảo trợ chính thức của giáo phận. Khi giới thiệu Ban Hát này, tôi chỉ muốn nói một điều là Ban Hát dù nhỏ hay lớn cần được sự quan tâm và hỗ trợ của các cơ quan chức năng, đồng thời bản thân các ca đoàn cũng phải tổ chức và chấn chỉnh nội bộ không ngừng, nếu muốn là một ban hát có giá trị đích thật. Chúng ta chưa thể sánh được với những ban hát lâu đời và có tầm cỡ lớn như người ta ở nước ngoài. Chúng ta nhỏ và ít khả năng cũng như phương tiện thì hãy tổ chức và hoạt động theo khả năng mình có.

Xin dừng lại về các ca đoàn bên Tây để nói về các ca đoàn bên ta.

3. Các ca đoàn bên ta

Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn : giai đoạn I từ cuối năm 1975 đến sau lễ Giáng sinh năm 1980 và giai đoạn II từ 1980 đến nay

3,1 Giai đoạn I

Có thể nói giai đoạn này là thời kỳ nở rộ của các ca đoàn. Nhiều nhà thờ như Chúa Cứu Thế, Huyện Sĩ, Đắc Lộ, Tân Định, Thị Nghè vô hình trung trở thành nơi tụ họp và gặp gỡ của giới trẻ, nhất là nhà nguyện Đắc lộ ở đường Yên Đổ.[10] Người trẻ hồi đó đi nhà thờ chưa hẳn vì lòng tin hay đạo đức mà có lẽ vì vui, có đông người, có ca đoàn hát hay, có người mặc quần áo đẹp, hợp thời trang v.v… Đàng khác thời đó ít có chỗ nào để vui chơi giải trí, lại đang phải sống trong nỗi lo sợ. Bấy giờ các ca đoàn hát nhiều bài mới lạ mà lời ca và nhất là nhịp điệu gần với nhạc đời hơn là nhạc đạo. Ngoài ra, có nơi hát cốt cho người ta nghe thôi, chứ ít để ý đến hát để cầu nguyện và giúp cầu nguyện. Rốt cuộc, đi những lễ này, dường như người ta chỉ muốn nghe hát cho thích thôi. Vì vậy, có nơi trong phần đáp ca, hát hai bài hợp xướng một lúc và những bài đó chẳng ăn nhằm gì với đáp ca, cả về nội dung lẫn hình thức. Thời kỳ này có thể nói ai muốn hát gì thì hát, hát làm sao cũng được, chẳng ai lên tiếng hay đưa ra nhận xét nào, có chăng thì cũng riêng tư thầm kín vậy thôi.

3,2 Giai đoạn II từ sau 1980 đến nay

Một phần vì mấy ca đoàn tên tuổi như Cung Chiều, Y Nhã, Thái Hòa không còn sinh hoạt nữa, sau vụ Trung Tâm Đắc Lộ bị dẹp năm 1980, phần khác vì một số thanh niên thiếu nữ vượt biên, đi làm hay đi học, nên các ca đoàn thiếu người hoặc nếu có thì lại vướng vào nhiều công vệc khác, không có thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu. Hơn nữa ca đoàn cũng không còn là nơi hấp dẫn và thu hút như trước. Nhiều nhà thờ bắt đầu hát cộng đồng và tỏ ra ít cần ca đoàn và ca đoàn cũng không còn đóng một vai trò quan trọng như xưa. Rồi vào năm 1987, có nhiều lời than phiền về việc hát xướng trong các nhà thờ đến tai Đức Cố Tổng Giám Mục Phao-lô Nguyễn văn Bình, khiến ngài lưu tâm và ra những thông cáo về Thánh Nhạc nhằm chấn chỉnh lại tình trạng nói trên.[11] Đây mới chỉ là một tiếng chuông báo động nhưng chưa đạt tới kết quả mong muốn, vì thiếu một sự hiểu biết về Thánh Nhạc nơi các ca đoàn và ca trưởng. Gần đây đã có một vài biến chuyển về việc hát đáp ca, nhưng các bài hát vẫn chưa được chọn lọc hoàn toàn chính xác và việc đệm đàn còn là một vấn đề nhức nhối. Vào nhiều nhà thờ bây giờ, người ta cảm thấy đau đầu nhức óc vì tiếng đàn và kiểu đệm đàn, khiến cho rất khó cầu nguyện và dường như không cầu nguyện đươc, vì sự ồn ào náo động của tiếng đàn và giọng hát. Vì thế, hiện BTN giáo phận đã mở những khóa dạy đàn dạy nhạc trong Trung Tâm Mục Vụ. Từ mấy năm qua, nhiều cuộc Đại Hội Thánh Nhạc toàn quốc đã được tổ chức tại Trung Tâm này, dưới sự chủ tọa của Đức Cha Chủ Tịch Ủy Ban Thánh Nhạc trực thuộc HĐGMVN, và sự điều hành tích cực của Ban Tổng Thư Ký, cùng với sự tham gia của các linh mục Trưởng Ban Thánh Nhạc các giáo phận và đông đảo nhạc sĩ sáng tác, ca trưởng, ca viên các ca đoàn. Sau mỗi cuộc Đại Hội là một đặc san Hương Trầm đúc kết các điều bản thảo và đưa ra những hướng dẫn thiết thực cho công việc hát xướng. Nhờ vậy, tình hình Thánh Nhạc đã được cải tiến và đang hướng tới một giai đoạn tốt đẹp hơn.

Dù thế, công việc hát xướng ở nhà thờ vẫn còn cần được các cha sở quan tâm và góp phần chấn chỉnh luôn mãi, vì đây là việc thờ phượng có liên hệ trực tiếp đến đời sống cầu nguyện của các tín hữu. Các ca viên cũng cần được động viên, hướng dẫn về Phụng Vụ và Thánh Nhạc như Ban Thánh Nhạc Việt Nam đã khởi xướng và thúc đẩy từ nhiều năm qua và nhũng cố gắng của Ban Thánh Nhạc thành phố qua 97 số báo Hát Lên Mừng Chúa, Tài liệu Thánh Nhạc, các lớp dẫn vào Thánh Nhạc, những băng nhạc Tam Nhật Vượt Qua, Thánh ca Mùa Giáng Sinh v.v…

Ca đoàn cũng như một cái cây. Cây không được tưới nước bón phân thì cây sẽ chết. Nếu được tưới nước bón phân mà không chăm sóc thường xuyên thì lá không đẹp và trái cũng chẳng ngon. Vì vậy, muốn ca đoàn phục vụ tốt thì họ đạo, đứng đầu là cha sở, cũng phải phục vụ tốt ca đoàn bằng sự lưu tâm, săn sóc, giúp đỡ, cổ võ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho ca đoàn phát triển về mặt kỹ thuật, hiểu biết chuyên môn cũng như tinh thần phục vụ. Không thể bỏ mặc ca đoàn mà lại đòi ca đoàn đáp ứng các yêu sách về Phụng Vụ và Thánh Nhạc. Phần đông các ca đoàn rất có thiện chí và tinh thần phục vụ. Sở dĩ còn những hạn chế và thiếu sót là vì ca đoàn chưa được huấn luyện và quan tâm cho đúng mức ; các ca trưởng cũng chưa đóng đúng vai trò của mình và nhiều cha sở viện cớ không biết hát, biết nhạc nên phó mặc cho ca đoàn xoay xở.

Kết luận

Nói tóm lại, các ca đoàn là những bộ phận không thể thiếu để phục vụ công việc thờ phượng. Muốn thế, các vị hữu trách cần quan tâm cho đúng mức và các ca viên cũng phải ý thức về sự cao quí của công việc này, vì đó thuộc phạm vi nhân đức thờ phượng, một dịch vụ bác ái và một sinh hoạt nghệ thuật. Vậy từ nay, ước mong các vị hữu trách quan tâm, huấn luyện, dìu dắt về phụng vụ và công việc thiêng liêng đạo đức cho các ca đoàn. Các ca viên cũng cần phân biệt nhạc đạo với nhạc đời và tuân hành giáo huấn cũng như kỷ luật của Hội Thánh về Thánh Nhạc để việc ca hát vừa làm đẹp cho buổi lễ, vừa nuôi dưỡng đời sống đức tin của các tín hữu. Làm thế nào để khi vào nhà thờ nghe hát, người ta không có cảm giác là vào một phòng trà hay một tụ điểm ca nhạc mà đến một nơi cầu nguyện, để tâm hồn được thanh thoát và tai được nghe những tiếng hát có sức biến đổi tâm hồn.

Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.
adxuanque@gmail.com